CÁCH XƯNG HÔ DÀNH CHO NGƯỜI ĐỨNG CÚNG LỄ

      Trong văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam, việc cúng tế trong các dịp lễ tết, giỗ kị diễn ra thường xuyên. Hầu như mỗi nhà đều có vài ngày giỗ quan trọng trong năm. Vì vậy, nghi lễ cúng tế thường rất được người dân quan tâm và thành kính tuân thủ, nhằm biểu đạt sự kính ngưỡng với tiền nhân gia tiên, dòng họ.



     Xưa kia, khoa cúng tế trong gia đình được thực hiện rất cầu kỳ, với những bài cúng sử dụng văn ngôn Hán Việt khiến nhiều người khó tiếp thu. Vì vậy văn khấn Nôm ra đời, nhằm bình dân hóa chuyện cúng tế gia đình, khiến việc khấn cầu trở nên đơn giản nhưng cũng không giảm đi sự thành kính đối với tổ tiên. Tuy dùng văn Nôm đã trở nên phổ biến. Nhưng những cách xưng hô giữa người chủ lễ với vong linh trong các buổi cúng tế vẫn sử dụng Hán Việt. Nhằm giúp độc giả dễ tiếp cận với phương thức xưng hô đặc trưng này, dưới đây là bảng liệt kê giữa người đứng lễ tự xưng mình với vong linh các bậc gia tiên tiền tổ.


Click vào hình để phóng to.

     Để có cái nhìn đầy đủ về tất cả các mối quan hệ trong gia đình, xin tham khảo phần dưới đây:

 

Kị ông, Kị bà: Cao tằng tổ khảo, Cao tằng tổ tỷ.

Chút: Huyền tôn.

Cụ ông, Cụ bà (Ông cố, bà cố): Tằng tổ khảo, Tằng tổ tỷ.

Chắt: Tằng tôn.

Ông nội, bà nội: Nội tổ phụ, Nội tổ mẫu.

Cháu nội: Nội tôn.

Ông nội, bà nội chết rồi thì xưng: Tổ khảo, Tổ tỷ.

Cháu xưng là: Nội tôn.

Con trai của Đích thê (Vợ chính thức, vợ cả) xưng là: Đích tử.

Con trai lớn tuổi nhất xưng là: Trưởng tử.

Con trai lớn tuổi nhất và là con trai của Đích thê xưng là: Đích trưởng tử.

Cháu trai của Đích thê (tức các con trai của các Đích tử) xưng là: Đích tôn: (cháu nội).

Cháu trai lớn tuổi nhất xưng là: Trưởng tôn: (cháu nội).

Đích trưởng tử của Đích trưởng tử xưng là : Đích trưởng tôn: (cháu nội).

Ông ngoại, bà ngoại: Ngoại tổ phụ, Ngoại tổ mẫu: (cũng gọi là ngoại công, ngoại bà).

Ông ngoại, bà ngoại chết rồi thì xưng: Ngoại tổ khảo, Ngoại tổ tỷ.

Cháu ngoại: Ngoại tôn.

Ông nội vợ, bà nội vợ: Nhạc tổ phụ, Nhạc tổ mẫu.

Ông nội vợ, bà nội vợ chết rồi thì xưng: Nhạc tổ khảo, Nhạc tổ tỷ.

Cháu nội rể: Tôn nữ tế.

Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, Hiển tỷ.

Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử (con trai), Cô nữ (con gái).

Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử (con trai), Ai nữ (con gái).

Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, Cô ai nữ.

Cha ruột: Phụ thân.

Cha ghẻ: Kế phụ.

Cha nuôi: Dưỡng phụ.

Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.

Con trai lớn: Trưởng nam.

Con gái lớn: Trưởng nữ.

Con kế: Thứ nam, Thứ nữ.

Con út: Trai: Út nam. Gái: Út nữ.

Con duy nhất, con một: Trai: Quý nam. Gái: Ái nữ.

Mẹ ruột: Sinh mẫu, Từ mẫu

Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ gọi vợ lớn của cha là Đích mẫu, mẫu thân

Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu.

Mẹ có chồng khác: Giá mẫu.

Mẹ nhỏ, tức vợ bé của cha: Di nương.

Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.

Bà vú: Nhũ mẫu.

Chú, bác vợ: Thúc nhạc, Bá nhạc.

Cháu rể: Điệt nữ tế.

Chú, bác ruột: Thúc phụ, Bá phụ.

Vợ của chú : Thím, Thẩm.

Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt.

Cha chồng: Công công.

Mẹ chồng: Bà bà.

Dâu lớn: Trưởng tức.

Dâu thứ: Thứ tức.

Dâu út: Quý tức.

Cha vợ (sống): Nhạc phụ, (chết): Hiển nhạc khảo.

Mẹ vợ (sống): Nhạc mẫu, (chết): Hiển nhạc tỷ.

Rể: Tế.

Chị, em gái của cha, ta gọi bằng cô: Thân cô, Cô mẫu, Cô cô

Ta tự xưng là: Nội điệt, Nữ: Điệt nữ

Chồng của cô: Dượng: Cô trượng, Tôn trượng, Cô phụ

Chồng của dì: Dượng: Di trượng, Biểu trượng.

Cậu, mợ: Cựu phụ, Cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm.

Còn ta tự xưng : Sinh tôn.

Cậu vợ: Cựu nhạc.

Cháu rể: Sinh tế.

Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.

Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm.

Vợ bé: Thứ thê, trắc thất.

Vợ lớn: Chính thất.

Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác): Kế thất.

Anh ruột: Bào huynh.

Em trai: Bào đệ, cũng gọi: Xá đệ.

Em gái: Bào muội, cũng gọi: Xá muội

Chị ruột: Bào tỷ.

Anh rể: Tỷ trượng, Tỷ phu.

Em rể: Muội trượng, muội phu còn gọi là: Khâm đệ.

Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc Tẩu tử.

Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức.

Chị chồng: Đại cô.

Em chồng: Tiểu cô.

Anh chồng: Phu huynh: Đại bá.

Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc.

Chị vợ: Đại di.

Em vợ (gái): Tiểu di tử, Thê muội.

Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.

Em vợ (trai): Thê đệ, Tiểu cựu tử.

Con gái đã có chồng: Giá nữ.

Con gái chưa có chồng: Sương nữ.

Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.

Tớ trai: Nghĩa bộc.

Tớ gái: Nghĩa nô, Nô tì

Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn đích trưởng tử của đích trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích trưởng tôn thừa trọng.

Cha và đích trưởng tôn chết trước, sau ông nội chết, tôn con của đích trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng.

Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, Cố mẫu; Đã chôn: Hiển khảo, Hiển tỷ.

Mới chết: Tử.

Đã chôn: Vong.

Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, Đường thúc, Đường cô, mình tự xưng là: Đường tôn.

Anh em bạn với cha mình: Niên bá, Quý thúc, Lệnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, Lệnh điệt.

Chú, bác của cha mình, mình kêu: Tổ bá, Tổ túc, Tổ cô.

Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn

Con riêng: Tư sinh tử

Con rể: Hiền tế


LƯỢNG THIÊN XÍCH. St





Bài đăng phổ biến