PHƯƠNG PHÁP HÓA GIẢI NGÀY GIỜ VÀ ĐỊA CUỘC SÁT SƯ
Giải trừ cấm kỵ - Hộ thân trừ họa – Giữ mạng tồn sinh – Hành đạo an lành
I. TỔNG LUẬN
VỀ HIỆN TƯỢNG XUNG SƯ PHẠM SƯ
Phàm là người
hành nghề phong thủy, dân gian thường gọi là “Địa sư” hay “Âm dương tiên sinh”.
Việc làm phong thủy, vốn là tích đức hành thiện, trợ hưng gia đạo. Nhưng trong
nghề lại ẩn tàng nhiều cấm kỵ. Một trong những điều tối kỵ chính là “Xung sư –
Phạm sư”: nghĩa là trong lúc làm huyệt âm trạch hay dương trạch mà khí sát,
hung thần hoặc tà sát xung phạm đến bản thân phong thủy sư, gây ra tai ương thảm
họa.
Những tình huống dễ gặp phải "xung sư phạm sư" bao gồm:
1. Âm phần, Dương trạch là cát địa, phúc địa, nhưng do khí lực quá mạnh, dễ sinh phản sát
2. Địa thế bại tuyệt, hung địa suy tàn, càng dễ xung phạm
3. Thi thể chết bất đắc kỳ tử, chết thảm, tử uế chưa hóa hết
4. Địa sư thân thể suy nhược, tâm thần bất an, gặp địa khí tuyệt sát nơi khảo sát
5. Chọn ngày sai lầm, nhật thần khắc thân
6. Phân kim tọa sơn trùng xung với bản mệnh địa sư
7. Mệnh chủ của người mất có năm sinh hình xung khắc với địa sư
8. Trước khi khởi hành gặp điềm gở: Người đánh nhau, thấy máu, nghe thấy tiếng khóc, thấy gương vỡ bể, v.v...
Những hiện tượng
trên có thể ứng nghiệm nhanh như: ngã bệnh, tai nạn, tử vong. Hoặc ứng chậm
như: vận suy, bệnh tật triền miên, gia đạo suy bại.
Do đó, người
hành nghề phong thủy cần học kỹ pháp hóa giải xung sư, đồng thời nắm vững
phương pháp hộ thân, trấn sát. Gặp hiện tượng bất tường, tuyệt đối không lớn tiếng,
không trấn trạch, lập tức rời khỏi hiện trường. Nếu bị tà khí xâm thân, hãy
dùng vỏ quýt cúng tổ tiên trong Tết, ngâm nước sạch rửa mắt, rửa thân, tà khí sẽ
tiêu tan.
II. LIỆT KÊ
CÁC NGÀY SÁT SƯ – SÁT SƯ NHẬT, SÁT SƯ THỜI
1. Niên La hầu nhật (Những ngày La hầu trong năm)
Năm Tý – ngày
Quý Dậu
Năm Sửu – ngày
Giáp Tuất
Năm Dần – ngày
Đinh Hợi
Năm Mão – ngày
Giáp Tý
Năm Thìn – ngày
Ất Sửu
Năm Tỵ – ngày
Giáp Dần
Năm Ngọ – ngày
Đinh Mão
Năm Mùi – ngày
Giáp Thìn
Năm Thân – ngày
Kỷ Tỵ
Năm Dậu – ngày
Giáp Ngọ
Năm Tuất – ngày
Đinh Mùi
Năm Hợi – ngày
Giáp Thân
2. Tứ quý La hầu nhật (Những ngày La hầu của bốn mùa)
Xuân: ngày Ất
Mão
Hạ: ngày Bính
Ngọ
Thu: ngày Canh
Thân
Đông: ngày Tân
Dậu
3. Nguyệt La hầu nhật (Những ngày La hầu trong tháng)
Tháng Giêng –
ngày Hợi
Tháng Hai –
ngày Tý
Tháng Ba – ngày
Sửu
Tháng Tư – ngày
Dần
Tháng Năm –
ngày Mão
Tháng Sáu –
ngày Thìn
Tháng Bảy –
ngày Tỵ
Tháng Tám –
ngày Ngọ
Tháng Chín –
ngày Mùi
Tháng Mười –
ngày Thân
Tháng Mười Một
– ngày Dậu
Tháng Chạp –
ngày Tuất
4. Sát sư thời (Giờ Sát sư)
Ngày Tý: kỵ giờ
Sửu, Ngọ
Ngày Sửu: kỵ giờ
Tỵ, Hợi
Ngày Dần: kỵ giờ
Dần, Ngọ
Ngày Mão: kỵ giờ
Thìn, Tuất
Ngày Thìn: kỵ
giờ Tỵ, Sửu
Ngày Tỵ: kỵ giờ
Thìn, Tuất
Ngày Ngọ: kỵ giờ
Mão, Thân
Ngày Mùi: kỵ giờ
Ngọ, Thìn
Ngày Thân: kỵ
giờ Tuất, Sửu
Ngày Dậu: kỵ giờ
Tý, Ngọ
Ngày Tuất: kỵ
giờ Mão, Ngọ
Ngày Hợi: kỵ giờ
Thìn, Mão
III. LUẬN VỀ CÁC HÌNH LONG SÁT SƯ – HÌNH HUYỆT SÁT HẠI PHONG THỦY SƯ
Long Kiếm – Kiếm Long Sát Sư: Là
loại long mạch có eo lưng hẹp, nhọn, như sống kiếm. Hình thế hiểm độc, sát khí
dâng tràn. Người đi trên thế đất ấy thường không thể đứng vững, dễ trượt ngã, tổn
thân. Kiếm sống long đa phần kết từ hỏa tinh, thuần dương, không hóa. Chôn tại
nơi ấy không kết huyệt, chủ tuyệt diệt.
Bắc Thần Thủ
Thủy Khẩu – Huyệt Sát Sư Ngầm:
Huyệt kết tại nơi có Bắc Thần tinh trấn thủ miệng thủy khẩu, sát khí lẫm liệt,
đá nhọn như giáo gươm. Nếu huyệt ở trung tâm kết huyệt, lập tức sát ứng với địa
sư. Nếu kết huyệt phụ bên ngoài, có thể tránh họa. Cần phân biệt rõ trung – phụ
huyệt.
Long Mang
Đao Kiếm – Dương Tinh Hộ Vệ, Hình Sát Trùng Trùng: Là loại long có khí sắc hiển lộ ra đao
kiếm, gươm giáo, chĩa ra bốn hướng. Huyệt như vậy kết thì ứng máu đổ, thương tổn.
Tuy nhiên nếu là huyệt hướng xuất khí (ngoại phát), không sát sư, mà sinh người
võ tướng, hung nhân.
Hình Rết –
Huyệt Nguy Hại Địa Sư:
Long mạch đi theo hình rết, nhiều chân, khúc khuỷu. Nếu đầu rết mở miệng, không
có châu sa phía trước thì sát sư. Nếu có châu sa như viên châu tròn phía trước
thì không sát, gọi là “rết nuốt châu”.
Hình Rắn –
Văn Tinh Tán Khí, Khó Kết Huyệt:
Rắn là văn tinh, khí yếu. Nếu rắn mở miệng nuốt vật, trước không có châu sa thì
dễ sát sư. Nếu có châu sa phía trước thì hóa sát, không hại.
Hình Hổ –
Hình Sư – Cọp Gầm Sư Gào, Khẩu Huyệt Phát Sát: Khi kết huyệt tại hình đất giống hổ hoặc sư tử, đầu lớn,
miệng mở, có sát khí âm dương giao tranh. Nếu trước huyệt có “thịt” – tức là tụ
điểm đất mềm, thì hóa sát. Nếu không có, huyệt kết tại miệng, chủ ứng sát ngay.
IV. PHÁP HÓA GIẢI SÁT SƯ – CHÚ NGỮ – NGHI PHÁP – PHÒNG THÂN
Chú Khai Cục
Hóa Sát:
"Nhất nhị
tam tứ ngũ, Thủy hỏa mộc kim thổ, Ngũ hành thông thiên địa, Bát quái định càn
khôn. Bàn Cổ khai thiên địa, Sơn Hoàng hộ địa linh. Khương Thượng Tổ Sư lai,
Bách sát thỉnh hồi tỵ. Ngô phụng Dương Công lệnh, Khai bàn định cửu cung. Thiên
vô kỵ, địa vô kỵ, âm dương vô kỵ, bách vô cấm kỵ."
Vừa tụng, vừa
dùng kiếm chỉ tay phải, vẽ 4 đường dọc, 5 đường ngang trên la bàn, quay 3 vòng
thuận, miệng tụng: "Thiên vô kỵ, địa vô kỵ, âm dương vô kỵ, bách vô cấm kỵ."
Kỵ không được
ứng tiếng – không đáp lời khi người gọi 'Thầy' trong sát sư nhật.
Kỵ ăn nhậu
trong ngày sát sư. Nếu phải ăn, mỗi món dâng lên lại thả xuống đất dưới chân,
dùng chân giẫm nhẹ.
Nếu bị phạm
khách: miệng méo, môi lệch, lập tức dùng giấy câu đối dán cửa mà lau mép.
Nếu xe bị hỏng,
phá – do hổ trắng chặn đường – thì dùng rượu trắng phun lên xe, hoặc bóc 4 góc
chữ Hỷ dán lên xe.
Tuyệt đối
không đặt la bàn trực tiếp xuống đất.
V. GHI NHỚ VÀ ỨNG DỤNG
Địa sư khi gặp
sát sư địa – tuyệt không nên tái nhập, không nên lưu lại. Định huyệt xong lập tức
rời xa, không nghe điện thoại, không nghe pháo, không nhìn hạ táng. Tránh cảm ứng
khí trường.
Nếu đã rõ là
huyệt sát sư, tuyệt không nên tự chôn. Nếu chủ nhân cố ép, thì địa sư tuyệt
không định kim.
Nếu bắt buộc phải
chôn thì đợi ngày khác mở huyệt, cho khí tản, sát giảm. Định huyệt xong phải rời
khỏi ngay.
VI. ÁN CHỨNG
LỊCH SỬ
Tại huyện Liêm
Giang – tỉnh Quảng Đông – có một huyệt sát sư. Huynh đệ địa lý từ Giang Tây đến
làm, gặp huyệt ấy, đã rõ là sát khí. Khi hạ táng, hai người cưỡi ngựa tránh xa.
Nhưng người anh dừng sớm, người em bảo nên đi xa hơn, không nghe. Đến lúc pháo
nổ vọng đến, người anh rớt ngựa, chết tại chỗ. Quả là khí trường ứng nghiệm,
linh dị không ngờ.
LƯỢNG THIÊN XÍCH. Sưu tầm và dịch